Điện gió ngoài khơi - nguồn điện xanh thế hệ mới có lịch sử phát triển khoảng 30 năm gần đây tại các nước Đan Mạch, Anh, Đức, Trung Quốc, Mỹ. Sau Hội nghị Thượng đỉnh COP 26 (năm 2021, tại Anh), trên thế giới đã hình thành liên minh các quốc gia điện gió ngoài khơi (GOWA).
I. Điện gió ngoài khơi và chính sách phát triển chung trên thế giới:
Xu hướng chung thế giới nỗ lực giảm khí thải nhà kính để giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu tạo ra nhu cầu hướng tới các dạng năng lượng tái tạo có hàm lượng carbon thấp. Theo báo cáo của Tổ chức Năng lượng Tái tạo Thế giới (IRENA): Các nguồn điện năng lượng tái tạo (NLTT) có thể tạo ra 130.000 TWh điện mỗi năm (hơn gấp đôi nhu cầu tiêu thụ điện toàn cầu hiện nay). Trong đó, điện gió ngoài khơi vào năm 2050 có thể chiếm đến gần 40% sản lượng điện năng lượng tái tạo trên toàn cầu (hình 1).
Hình 1. Tỷ trọng điện gió ngoài khơi trong các nguồn điện tái tạo, năm 2050.
Điện gió ngoài khơi cùng với điện gió trên bờ gây phát thải khí nhà kính rất thấp so với các nguồn điện đang sử dụng hiện có chỉ vào khoảng hơn 10g C2/1kWh, bằng 1/100 so với điện than (hình 2).
Hình 2: Khối lượng khí thải cacbon từ 1 kWh các nguồn điện.
Gió trên biển được chuyển đổi thành điện năng nhờ các tua bin gió có công suất lớn lên đến 16 MW - 20 MW, được chế tạo với tuổi thọ cao hơn lên đến 25 - 30 năm, giá thành có thể tiếp tục giảm và phù hợp với điều kiện khắc nghiệt trên biển. Điện gió ngoài khơi là một hình thức phát điện khai thác sức gió ngoài biển, biến thành điện năng và cung cấp cho mạng lưới truyền tải điện trên bờ. Những trang trại điện gió biển tại Vinderby (Đan Mạch) đã được lắp đặt cách đây 30 năm và có tuổi thọ 25 năm, đã được tháo dỡ. Điện gió ngoài khơi là một công nghệ đã được chứng minh và triển khai trên quy mô lớn ở nhiều quốc gia như: Trung Quốc, Đan Mạch, Đức, Hà Lan, Vương quốc Anh. Đối với nhiều quốc gia, điện gió ngoài khơi hứa hẹn như một hình thức phát điện ở quy mô lớn, sạch và đáng tin cậy.
Hình 3: Tỷ trọng điện gió ngoài khơi của các quốc gia.
Đến hết năm 2023 thế giới có 75,2 GW điện gió ngoài khơi được lắp đặt. Trong đó, đứng đầu là Trung Quốc (37,6 GW) chiếm 50%, UK (13,6 GW) chiếm 20%, Đức (8 GW) chiếm 11%, Hà Lan *4,5 GW) chiếm 6%, Đan Mạch (3 GW) chiếm 4%.
Năm quốc gia trên chiếm đến 91% công suất lắp đặt của điện gió ngoài khơi, các quốc gia còn lại, trong đó có Việt Nam chỉ chiếm có 9%.
Hình 4: Tỷ trọng điện gió ngoài khơi của các quốc gia lắp đặt năm 2023.
Số lượng các dự án điện gió ngoài khơi (ĐGNK) phát triển nhanh trong các năm 2021 là 15 GW, 2022 gần 10 GW và năm 2023 là gần 11 GW. Riêng năm 2023, Trung Quốc lắp đặt chiếm 58% toàn cầu, sau đó đến Hà Lan (18%), UK (8%), Đài Loan (6%), Pháp (3%), các quốc gia còn lại là 7%.
Báo cáo Tổ chức Năng lượng Quốc tế (IEA) đã dự báo: Năm 2040 sẽ có 1.000 tỷ USD đầu tư vào điện gió ngoài khơi và châu Á chiếm đến hơn 60%. Trung Quốc năm 2019 có 4 GW điện gió ngoài khơi, hiện nay là hơn 37,6 GW (vượt công suất điện gió ngoài khơi của châu Âu) và dự báo năm 2040 là 110 GW và năm 2050 là 350 GW.
Chính sách và đạo luật về NLTT của một số quốc gia tiêu biểu như: Trung Quốc, Đan Mạch, Anh, Đức được đánh giá là khá tiên tiến và toàn diện. Các nước này đều có luật NLTT và thúc đẩy phát triển NLTT nói chung và điện gió ngoài khơi nói riêng từ những năm 2000 nên đã đạt được một số thành tựu đáng kể. Gần đây, Úc có đạo luật riêng cho điện gió ngoài khơi năm 2021.
Đặc biệt, Đan Mạch có kế hoạch đạt mức tiêu thụ điện từ năng lượng gió ngoài khơi lên tới 50% vào năm 2030, trong khi Anh đã xây dựng thành công nhiều dự án điện gió ngoài khơi lớn nhất thế giới. Tuy nhiên, việc xây dựng các dự án điện gió ngoài khơi cũng gặp phải nhiều khó khăn, thách thức, như tranh chấp quyền sở hữu đất đai, tài nguyên biển và vấn đề liên quan đến bảo vệ môi trường. Do đó, cần có sự hợp tác giữa các quốc gia và các tổ chức quốc tế để xây dựng một hệ thống hành lang pháp lý, chính sách phù hợp cho phát triển điện gió ngoài khơi, đồng thời đảm bảo quyền lợi của các bên liên quan và bảo vệ môi trường.
Gần đây các quốc gia như Mỹ, Úc có chính sách cụ thể cho điện gió ngoài khơi (gồm cơ quan đầu mối một cửa quản lý cấp phép điện gió ngoài khơi). Tại Mỹ là Cục Năng lượng Đại dương (BOEM), Úc là Cục Năng lượng và Biến đổi Khí hậu và một số đạo luật, chiến lược phát triển về điện gió ngoài khơi.
II. Phân tích các thách thức của phát triển điện gió ngoài khơi tại Việt Nam:
1. Thuận lợi:
Việt Nam đã cam kết tại COP 26 năm 2021 về Net zero vào năm 2050. Cùng với xu hướng chuyển dịch xanh gắn với phát triển năng lượng tái tạo trên thế giới, trong đó có điện gió ngoài khơi.
Tiềm năng điện gió ngoài khơi tại Việt Nam có khoảng gần 600 GW. Trong đó, tiềm năng kỹ thuật là 261 GW điện gió ngoài khơi móng cố định (ở độ sâu thấp hơn 50 m), 338 GW của các dự án điện gió ngoài khơi móng nổi (ở vùng biển sâu hơn 50 m). Có nơi tốc độ gió hàng năm vượt quá 10 m/s.
Việt Nam đã có được những định hướng chiến lược đúng đắn cho việc phát triển, tận dụng nguồn năng lượng từ biển, Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã ban hành Nghị quyết về Chiến lược Phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 (Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018). Nghị quyết đã đưa ra các đột phá về phát triển kinh tế biển. Trong đó, tại vị trí số 6 có nhấn mạnh về “năng lượng tái tạo và các ngành kinh tế biển mới”.
Ngày 11/2/2020, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị quyết số 55-NQ/TW về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, với nội dung: “… Xây dựng các chính sách hỗ trợ và cơ chế đột phá cho phát triển điện gió ngoài khơi gắn với triển khai thực hiện Chiến lược biển Việt Nam”.
Nghị quyết số 140/NQ-CP của Chính phủ ban hành chương trình hành động của Chính phủ thực hiện nghị quyết số 55-NQ/TW ngày 11/02/020 của Bộ Chính trị về định hướng chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Quyết định số 1658/QĐ-TTg ngày 1/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Tháng 5/2023, Chính phủ đã phê duyệt Quy hoạch phát triển điện VIII. Trong đó, đặt mục tiêu 6 GW điện gió ngoài khơi vào năm 2030 và 70-91 GW vào năm 2050.
Tháng 4/2024 Chính phủ đã phê duyệt Kế hoạch thực hiện Quy hoạch phát triển điện VIII.
Năm 2021, Báo cáo Lộ trình điện gió ngoài khơi cho Việt Nam do Ngân hàng Thế giới xuất bản đưa ra một kịch bản cao 70 GW vào năm 2050, với tầm nhìn một quốc gia thành công trong ngành công nghiệp điện gió ngoài khơi và cho rằng: Việt Nam có thể đứng thứ 5 thế giới (sau Trung Quốc, Mỹ, Ân Độ, Nhật Bản).
Giá thành quy dẫn LCOE cho điện gió ngoài khơi đã giảm mạnh từ năm 2012 với 255 USD/MWh đến hiện nay vào khoảng 80 USD/1 MWh và sau 2030 sẽ vào khoảng 58 USD/1 MWh.
Chúng ta cũng có các văn bản pháp lý liên quan đến điện gió ngoài khơi:
- Luật Biển Việt Nam (ngày 21/6/2012), Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo (ngày 25/6/2015), Luật Quy hoạch số 21/2017/QH14 (ngày 24/11/2017).
- Nghị định số 11/2021/NĐ-CP (ngày 10/02/2021) của Chính phủ quy định việc giao các khu vực biển nhất định cho tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tài nguyên biển.
- Quyết định số 39/2018/QĐ-TTg (ngày 10/9/2018) của Thủ tướng Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 37/2011/QĐ-TTg (ngày 29/6/2011) của Thủ tướng Chính phủ về cơ chế hỗ trợ phát triển các dự án điện gió tại Việt Nam tại Điều 8 quy định: “Khởi công xây dựng công trình điện gió: Chủ đầu tư chỉ được phép khởi công xây dựng công trình điện gió khi… có báo cáo số liệu đo gió trong khoảng thời gian liên tục ít nhất là 12 tháng”.
- Thông tư số 02/2019/TT-BCT (ngày 15/1/2019) của Nhà Cái Suncity Casino Uy Tín Số 1 Châu Á
quy định thực hiện phát triển dự án điện gió và Hợp đồng mua bán điện mẫu cho các dự án điện gió.
Bộ Tài nguyên và Môi trường đã hoàn thiện xong dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 40/2016/NĐ-CP (ngày 15/5/2016) của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo và Nghị định số 11/2021/NĐ-CP. Trong đó, đã bổ sung quy định về hồ sơ, trình tự thẩm định, ban hành văn bản chấp thuận đo đạc, quan trắc, đánh giá tài nguyên biển.
Hình 5: Danh sách 96 ĐGNK dự án theo các tỉnh. (Nguồn Quy hoạch phát triển điện VIII).
2. Thách thức:
2.1. Các văn bản pháp lý. Hầu như chưa có văn bản pháp lý nào quy định cụ thể cho điện gió ngoài khơi, mà mới chỉ có nêu điện gió ngoài khơi trong Quy hoạch điện VIII ban hành năm 2023.
Trong các quy định liên quan đến Biển: Luật Biển Việt Nam 2012: Tại Điều 45. Xây dựng và phát triển kinh tế biển có khoản 2 về việc giao một số khu vực biển cho tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tài nguyên biển được thực hiện theo đúng quy định của Chính phủ. Trong điều này chưa có quy định cụ thể về việc cho ngành năng lượng tái tạo nói chung và điện gió ngoài khơi nói riêng thuê mặt nước biển.
Luật Tài nguyên, Môi trường biển và hải đảo năm 2015 có Điều 19 quy định về trình tự, nội dung cấp phép nghiên cứu khoa học trên vùng biển Việt Nam đối với tổ chức, cá nhân nước ngoài. Tuy nhiên, Điều 19 không quy định về khảo sát, nghiên cứu, xây dựng các dự án phát triển kinh tế biển nói chung (vốn tư nhân) và điện gió ngoài khơi nói riêng mà chỉ quy định về khảo sát, nghiên cứu cơ bản vốn ngân sách.
Trong các quy định liên quan đến giấy phép môi trường: Luật Bảo vệ Môi trường 2020 có quy định về Đánh giá tác động môi trường (EIA) đối với các dự án Năng lượng tái tạo tại Điều 28, Giấy phép môi trường tại Điều 39, Giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, tổ chức và phát triển thị trường các-bon và các biện pháp thúc đẩy hoạt động về giảm nhẹ phát thải khí nhà kính trong Điều 91. Tuy nhiên, Luật chưa quy định rõ các dự án năng lượng tái tạo đặc thù thuộc dự án danh mục xanh có mục tiêu giảm khí thải nhà kính, Net zero cacbon thì có thể giảm thiểu một số nội dung đánh giá tác động môi trường, đặc biệt các DTM dự án điện gió ngoài khơi.
2.2. Với các bộ, ngành:
- Chưa có quy định quyền hạn và trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân tự bỏ kinh phí điều tra khảo sát và việc giao nộp dữ liệu khảo sát.
- Các dự án điện gió ngoài khơi được đưa vào Quy hoạch điện VIII cơ bản chỉ có tổng công suất, phần lớn không có vị trí và không có tên chủ đầu tư.
- Chưa có quy định về lựa chọn nhà đầu tư sẽ được thực hiện theo các quy định của Luật Đấu thầu, Luật Đầu tư và các quy định pháp luật khác có liên quan.
- Chưa rõ cấp có thẩm quyền giao khu vực biển, cho phép, hay chấp thuận cho các tổ chức sử dụng khu vực biển để thực hiện các hoạt động đo đạc, quan trắc, điều tra, thăm dò, khảo sát nhằm phục vụ lập dự án điện gió ngoài khơi.
- Quy hoạch không gian biển quốc gia chưa được phê duyệt, nên chưa có cơ sở triển khai thực hiện Quy hoạch điện lực.
- Chưa xác định các khu vực khảo sát chồng lấn với khu vực dành cho các hoạt động quốc phòng. Ngoài ra, cần lưu ý đến các vấn đề về an toàn hàng hải, quản lý người, phương tiện nước ngoài trong vùng biển nước CHXHCN Việt Nam. Chưa có tiêu chuẩn quốc gia về hệ thống giám sát an ninh quốc phòng trên biển riêng biệt, độc lập với giám sát của dự án.
- Chưa có quy định cho các tổ chức, cá nhân nước ngoài được phép thực hiện hoạt động đo gió, khảo sát địa chất, địa hình trên vùng biển Việt Nam. Đồng thời, chưa quy định rõ yêu cầu hồ sơ, trình tự, thủ tục ban hành văn bản chấp thuận và quy định về việc quản lý hoạt động khảo sát gió, địa chất, địa hình.
- Chưa có yêu cầu cụ thể đối với phương tiện, thiết bị nước ngoài nhập, xuất để lắp đặt cho dự án điện gió ngoài khơi.
- Chưa xác định rõ khu vực biển đề xuất khảo sát (chồng lấn với luồng hàng hải quốc gia, quốc tế).
- Chưa có quy định khoảng cách an toàn sinh thái từ khu vực có dự án điện gió ngoài khơi tới các khu bảo tồn biển, khu dự trữ sinh thái, di sản thiên nhiên, văn hoá.
- Chưa có quy định về dự án xuất khẩu và khu vực biển dành cho xuất khẩu điện gió ngoài khơi.
- Chưa có quy định về khu vực sản xuất hydro xanh từ nguồn điện gió ngoài khơi.
2.3. Vướng mắc về kỹ thuật:
- Chưa có quy định về diện tích khu vực biển chấp thuận cho sử dụng để đo gió, khảo sát địa chất, địa hình, đánh giá tác động môi trường trên biển là bao nhiêu ha trên 1 MW công suất dự kiến đối với từng khu vực biển (mỗi vùng biển sẽ có quy định khác nhau khi tốc độ gió, mật độ gió, công suất tua bin, điều kiện địa chất, địa hình biển khác nhau).
- Chưa có quy định công suất điện gió tối đa cho 01 dự án là bao nhiêu, chẳng hạn 0,5 GW, 1 GW, hay 2 GW… để vừa đảm bảo khuyến khích nhà đầu tư tham gia dự án, vừa đảm bảo cân đối hệ thống truyền tải điện.
- Chưa có quy định công suất dự kiến để khảo sát là bao nhiêu GW trong từng thời kỳ quy hoạch cho phù hợp với tổng công suất điện gió ngoài khơi lũy kế đến năm 2030 được xác định khi Quy hoạch điện VIII được phê duyệt. Chưa có tiêu chí lựa chọn nhà phát triển dự án có kinh nghiệm, năng lực và có cam kết rõ ràng về tiến độ, chất lượng khảo sát điện gió ngoài khơi. Chưa có quy hoạch diện tích các vùng biển có tiềm năng và khả năng phát triển điện gió, vùng dành cho xuất khẩu điện gió, vùng dành cho sản xuất riêng lẻ và kết hợp green hydrogen.
2.4. Các vướng mắc khác:
- Còn có cách hiểu khác nhau về việc cho phép (hoặc không cho phép) tổ chức, cá nhân nước ngoài thực hiện hoạt động đo gió, khảo sát địa chất, địa hình trên biển.
- Chưa quy định cụ thể về hồ sơ, tài liệu, trình tự, thủ tục, thời gian giải quyết việc chấp thuận việc đo đạc, quan trắc, điều tra, khảo sát, đánh giá tài nguyên biển.
- Chưa quy định “được phép”, hay “không được phép” cùng thực hiện khảo sát trong trường hợp có nhiều đề xuất trong cùng một khu vực biển, hoặc đề xuất có sự chồng lấn, giao thoa.
- Chưa quy định cụ thể thời gian xem xét, thẩm định, chấp thuận hoạt động đo gió, quan trắc, khảo sát địa chất, địa hình, đánh giá tác động môi trường trên biển phục vụ lập dự án điện gió là bao nhiêu ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đầy đủ hồ sơ.
- Chưa quy định thời hạn chấp thuận thực hiện hoạt động đo đạc, quan trắc, điều tra, khảo sát, đánh giá tài nguyên biển.
- Chưa quy định về nội dung báo cáo, thời điểm gửi báo cáo kết quả đến cơ quan đã chấp thuận hoạt động đo gió, quan trắc, điều tra, khảo sát, đánh giá tác động môi trường trên biển.
III. Đề xuất giải pháp phát triển điện gió ngoài khơi tại Việt Nam:
Với mục tiêu đáp ứng nhu cầu điện, đảm bảo an ninh năng lượng, đa dạng hóa nguồn điện và cung cấp điện ổn định, tin cậy, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội và an ninh quốc phòng của đất nước, việc xây dựng chiến lược phát triển tổng thể lĩnh vực điện gió ngoài khơi, đưa Việt Nam thành cường quốc điện gió ngoài khơi (quốc gia kinh tế biển mạnh) là hết sức cần thiết. Vì vậy, cần có giải pháp tháo gỡ đối với các vướng mắc về pháp lý, chính sách như sau
Thứ nhất: Cần xem xét nghiên cứu xây dựng và ban hành Chiến lược quốc gia, kèm với Lộ trình về phát triển ĐGNK đến 2030 tầm nhìn đến 2050.
Thứ hai: Cần lồng ghép chương về điện gió ngoài khơi vào trong Luật Điện lực (sửa đổi).
Thứ ba: Cần nghiên cứu bổ sung vào Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo các quy định về không gian biển kỹ thuật cho điện gió, hướng dẫn đánh giá tác động môi trường xã hội và quy định về cấp phép khảo sát cho tổ chức trong nước, nước ngoài với các nguồn vốn ngoài ngân sách.
Thứ tư: Quy hoạch không gian phát triển điện gió ngoài khơi cho các dự án cụ thể gắn với Kế hoạch thực hiện và Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia.
Thứ năm: Xác định khung pháp lý, cũng như không gian cho xuất khẩu điện gió ngoài khơi (như ký kết của Việt Nam với Singapore, Malaisia).
Thứ sáu: Nghiên cứu các chương trình, mô hình thử nghiệm kết hợp ĐGNK với sản xuất hydrogen xanh, đảo năng lượng ĐGNK và các dạng ngành nghề khác như: Năng lượng sóng biển, năng lượng mặt trời, thủy triều, nuôi biển, du lịch...
Thứ bảy: Để sớm thực hiện các dự án thí điểm về điện gió ngoài khơi đến 2030 (với 6 GW), cần sớm ban hành Nghị quyết Quốc hội thí điểm phát triển dự án ĐGNK (2024 - 2025). Đây cũng có thể tạo cơ sơ cho việc ban hành Luật ĐGNK sau 2030./.
[*] TS. DƯ VĂN TOÁN - VIỆN KHOA HỌC MÔI TRƯỜNG, BIỂN VÀ HẢI ĐẢO (BỘ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG)
Tài liệu tham khảo:
1. Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 về Chiến lược Phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
2. Nghị quyết số 55-NQ/TW về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
3. Quyết định 500/QĐ-TTg ngày 15/5/2023 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050
4. Quyết định 262/QĐ-TTg ngày 1/4/2024 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch thực hiện Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
5. WFO, 2024, Global Offshore Wind Report 2023. 13 pp
6. Ngân hàng thế giới, 2021. Báo cáo Lộ trình phát triển điện gió ngoài khơi Việt Nam đến năm 2050.
7. Australia, Offshore Electricity Infrastructure Regulations 2022.
Theo Tạp chí Năng lượng Việt Nam.